KHI NÀO HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU?

Thảo luận trong 'Sinh Viên Học Tập' bắt đầu bởi Luật Sư riêng, 13/8/18.

  1. Luật Sư riêng

    Luật Sư riêng Thành viên

    Theo quy định của Điều 407 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được áp dụng theo các quy định từ Điều 123 đến Điều 133 BLDS bao gồm các trường hợp sau:

    [​IMG]
    - Giao dịch bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của BLDS bao gồm:
    + Chủ thể giao dịch phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
    + Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
    + Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
    + Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội:
    + Nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu.
    + Vi phạm điều cấm của pháp luật có nghĩa là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
    + Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
    + Nếu một giao dịch dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo đó bị vô hiệu, tuy nhiên giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo các quy định khác của BLDS.
    Ví dụ: A bán nhà cho B nhưng lại làm hợp đồng giả tạo là hợp đồng tặng cho nhà để không phải đóng thuế cho nhà nước, khi đó hợp đồng tặng cho nhà bị coi là vô hiệu còn hợp đồng bán nhà vẫn có hiệu lực.
    + Luật cũng quy định trường hợp giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó cũng bị vô hiệu.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện:
    + Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, toà án có thể tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện, ví dụ một người bị tâm thần, không có khả năng nhận thức được hành vi của mình đã kí hợp đồng để bán nhà cho một người khác, giao dịch này bị coi là vô hiệu vì trong trường hợp này người bị tâm thần không thể tự mình giao dịch được mà cần phải có người đại diện của họ.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn:
    + Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
    Ví dụ: A bán cho B 20 cái Tivi nhưng A quên không thông báo cho B biết rằng màn hình của 5 cái Tivi bị lỗi. B yêu cầu A giảm bớt giá bán 5 cái Tivi đó hoặc thay màn hình mới nhưng A không chấp nhận. B có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch mua bán đó vô hiệu.
    + Trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì sẽ áp dụng các quy định tại Điều 127 BLDS về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ. Trong ví dụ trên đây, nếu A cố tình che giấu, không thông báo cho B biết về hệ thống đèn bị hỏng và nói với B rằng hệ thống đèn vẫn tốt thì trường hợp này bị coi là giao dịch bị lừa dối.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ:
    + Theo quy định của BLDS thì lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.
    + Đe doạ trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thịêt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con mình.
    + Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe doạ thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
    Ví dụ: một người có năng lực hành vi dân sự bình thường nhưng đã ký hợp đồng mua bán tài sản trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của họ thì trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu nếu người đó yêu cầu toà án tuyên hợp đồng đó là vô hiệu.
    - Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì khi có yêu cầu, toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì giao dịch đó bị vô hiệu.
    Ví dụ: A và B thoả thuận mua bán nhà nhưng không ký hợp đồng bằng văn bản (theo quy định của pháp luật thì hợp đồng mua bán nhà phải được giao kết bằng văn bản), khi có tranh chấp xảy ra, toà yêu cầu các bên phải hoàn tất thủ tục theo quy định của pháp luật trong một thời hạn nhất định nhưng không bên nào thực hiện. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, toà án có thể tuyên hợp đồng này là vô hiệu.
    - Ngoài các quy định trên, BLDS còn có quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được: đó là trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
    Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
    Ví dụ: A cam kết sẽ sản xuất để bán cho B một loại thuốc có thể chữa được bệnh tim mạch, B tin tưởng rằng A có thể bán cho mình loại thuốc đó nên đã giao kết hợp đồng với A nhưng vì lí do khách quan A không thể sản xuất được loại thuốc đó và A cũng biết rằng mình sẽ không thể giao cho B loại thuốc đó nhưng lại không thông báo cho B biết. Trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu và A phải bồi thường cho B.
    Quy định trên đây cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
    Theo quy định của BLDS hiện hành thì sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng chính trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

    TƯ VẤN, RÀ SOÁT VÀ SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG
    ---------------------------------------------
    Công ty Luật TNHH Luật Sư Riêng
    Hotline: 02862765595-0962011118
    Trụ sở: 25 Vũ Tông Phan - An Phú-Quận 2-TP.HCM
    Email: hopdong@luatsurieng.net
    Website: http://www.luatsuhopdong.vn/
    Fanpage: https://www.facebook.com/luatsuhopdong.vn
     
    danh sách diễn đàn rao vặt gov chất lượng
  2. VuThiHue

    VuThiHue Thành viên mới

    không thể tách rời của hợp đồng chính.
     
  3. VuThiHue

    VuThiHue Thành viên mới

    Hình thức của giao dịch dân sự là